Mục Lục
- 1 1.Phát minh Tàu Thuyền
- 2 2. Phát minh Bánh xe
- 3 3. Phát minh Thép
- 4 4. Phát minh Thủy lực
- 5 5. Phát minh Kính hiển vi
- 6 6. Phát minh ra Điện
- 7 7. Kính thiên văn
- 8 8. Phát minh ra Động cơ
- 9 9. Phát minh ra Đèn điện
- 10 10. Phát minh ra Điện báo
- 11 11. Phát minh ra Nam châm điện
- 12 12. Phát minh ra Điện thoại
- 13 13.Chất bán dẫn (1896):
- 14 14. Phát minh ra Radio – Đài
- 15 15. Electron (1897):
- 16 16. Vật lý lượng tử (1900):
- 17 17. Phát minh ra Máy bay (1903):
- 18 18. Phát minh ra Tivi (1926):
- 19 19. Phát minh ra Transistor (1947):
- 20 20. Vi mạch
- 21 21. Phát minh ra Internet (1969):
- 22 22. Bộ vi xử lý (1971):
- 23 23. Phát minh ra Điện thoại di động (1973):
- 24 23. Điện thoại thông minh – Smartphone (2007):
1.Phát minh Tàu Thuyền
Tàu (4.000 TCN): Khoảng năm 4.000 TCN, người Ai Cập cổ đại đã biết làm những chiếc thuyền buồm bằng gỗ. Sau đó, khoảng năm 1200 TCN, người Phoenician (nền văn minh cổ đại nằm ở miền bắc khu vực Cannan cổ đại và trung tâm nằm dọc vùng eo biển Liban, Syria và bắc Israel ngày nay) và Hy Lạp đã bắt đầu làm được những chiếc thuyền lớn hơn.
Việc phát minh ra thuyền buồm là bước tiến khổng lồ của nhân loại bởi vì đây được xem là phương tiện di chuyển đầu tiên tạo cơ sở cho hoạt động thương mại diễn ra giữa các khu vực khác nhau trên thế giới.
2. Phát minh Bánh xe
Bánh xe (3.400 TCN): Bước tiến có ý nghĩa tiếp theo trong lịch sử cải tiến thế giới đó chính là sự ra đời của bánh xe, được các nhà khoa học cho rằng có nguồn gốc vào khoảng giữa năm 3.300 đến 3.500 TCN. Do chính những khó khăn trong quá trình sử dụng các khúc gỗ để vận chuyển vật nặng mà con người đã nghĩ ra giải pháp kết hợp bánh xe với các thanh ngang đặt bên dưới có tác dụng ngăn bánh trượt ra ngoài.
Vết tích của chiếc bánh xe cổ xưa nhất cùng với trục cơ học được tìm thấy ở khu vực lưỡng hà, có niên đại ước tính từ năm 3500 trước Công nguyên. Thuở ban đầu, bánh xe có thiết kế dày và đặc. Về sau, người ta phát minh thêm nan hoa. Và những chiếc bánh xe có nan hoa đầu tiên được tạo ra trên bán đảo Tiểu Á (ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) vào khoảng năm 2.000 trước Công nguyên. Để có được những chiếc bánh xe như ngày nay, người ta đã phát minh thêm nhiều bộ phận mới như vành xe, lốp cao su rồi cả săm để bơm hơi, giảm xóc.
3. Phát minh Thép
Thép (650 TCN): Thép là một loại hợp chất – hợp kim được tạo thành từ phản ứng giữa sắt và carbon – đồng thời cũng là một trong những vật liệu cứng nhất hiện nay. Quá trình sản xuất thép sớm nhất được biết đến thông qua một đồ dùng bằng sắt được khai quật ở Tây Á có niên đại khoảng 4.000 năm tuổi.
Quân đội Spartans cũng đã từng sử dụng thép rộng rãi trong khoảng năm 650 TCN, tiếp sau đó là người Trung Quốc (400 TCN) và người La Mã.
4. Phát minh Thủy lực
Thủy lực (200 TCN): Thủy lực lần đầu tiên được người dân ở khu vực Fertile Crescen (một khu vực trải dài qua Ai Cập, Israel, Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq ngày nay)sử dụng vào năm 200 TCN. Họ đã áp dụng các nguyên lý cơ bản để tạo ra các máy móc dùng sức nước, thuyền buồm, kênh tưới và hệ thống cấp nước…
5. Phát minh Kính hiển vi
Kính hiển vi (1592): Kính hiển vi là một phát minh rất vĩ đại của nhân loại, tạo tiền đề để có những đột phá ấn tượng trong việc nhận thức về công nghệ nano và hiểu biết sâu hơn về cấu trúc của phân tử. Ba người thợ tạo kính là Hans Lippershey (người đã phát triển các kính viễn vọng trước đó), Zacharias Janssen, cùng với cha của họ là Hans Janssen là những người đầu tiên xây dựng nên những kính hiển vi sơ khai.
Năm 1625, Giovanni Faber là người xây dựng một kính hiển vi hoàn chỉnh đặt tên là Galileo Galilei .
6. Phát minh ra Điện
Điện (1600): Năm 600 TCN tại Hy Lạp, nhà toán học lừng danh Thalès de Milet đã tiến hành khảo cứu mọi sự vật và hiện tượng xung quanh, nhận thấy rằng khi xát mạnh miếng hổ phách thì miếng này sẽ hút được các vụn gỗ. Trải qua 22 thế kỷ tới năm 1600, Sir William Gilbert là người đầu tiên khảo cứu về điện học và từ học. Gilbert nhớ lại các điều nhận xét của Thalès khi trước. Ông tự hỏi các chất khác với hổ phách liệu có tính chất khi xát mạnh, hút các vật nhẹ như hổ phách không? Gilbert liền thử với nhiều chất liệu và tìm thấy lưu huỳnh, thủy tinh, si có tính chất tương tự. Ông đặt tên cho sức hút bí ẩn này là điện lực (électricité), suy từ chữ Hy Lạp Elektra là hổ phách.
7. Kính thiên văn
Kính thiên văn (1608): 400 năm trước (1608 – 2008), Hans Lippershey, một nhà chế tạo kính mắt người Hà Lan tình cờ phát hiện ra nguyên lý phóng đại khi kết hợp các thấu kính, ông đã chế tạo ra ống kính nhìn xa tiền thân của kính thiên văn quang học. Đây chính là một cột mốc quan trọng trong lịch sử thiên văn học vì chỉ một năm sau đó (1609), nhà bác học vĩ đại Galieo đã sử dụng chiếc kính thiên văn đầu tiên của nhân loại quan sát các thiên thể, tạo ra một bước ngoặt của loài người về thế giới quan.
8. Phát minh ra Động cơ
Động cơ (1712): Thomas Newcomen (1663 -1729) một thợ rèn tại Darthmouth, Anh đã chế tạo ra động cơ hơi nước đầu tiên. Phát minh của Thomas Newcomen bắt đầu từ mong muốn bơm nước ra khỏi các hầm mỏ khai thác than thời bấy giờ do càng đào xuống sâu trong lòng đất thì nước tràn vào các hầm mỏ càng nhiều. Đến năm 1764, James Watt (1736 – 1819) một người chế tạo dụng cụ cơ khí ở Glasgow được yêu cầu sửa một mô hình (chính là cỗ máy hơi nước đầu tiên của Newcomen) đã cải tiến để chế tạo ra những động cơ hơi nước có công suất cao hơn, hiệu quả hơn, dễ vận chuyển hơn so với bất kỳ thứ gì từng có trước đó.
Động cơ hơi nước của James Watt được xem là phát minh quan trọng nhất trong cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh cuối thế kỷ thứ 18, đầu thế 19. Tuy nhiên, Khởi thủy của phát minh này lại là 1 sáng chế của 1 nhà khoa học khác – chiếc máy bơm nước chạy bằng hơi nước của Thomas Savory. Về sau, James Watt đã nâng cấp chiếc máy hơi nước 1 cách toàn diện mới đúng. Chẳng thế mà cả thế giới đều công nhận James Watt mới là người đã phát minh ra động cơ hơi nước, chứ không phải Savory hay Newcomen
Sự ra đời của máy hơi nước đã tạo nên bước đột phá cho cuộc cách mạng công nghiệp.
Cả thế giới đã thay đổi nhớ có những chiếc động cơ hơi nước của James Watt
9. Phát minh ra Đèn điện
Đèn điện (1802): Thí nghiệm năm 1802 của nhà khoa học người Anh Humphry Davy có thể coi là khởi đầu cho những phát minh về bóng đèn sợi đốt sau này. Davy cho một dòng điện chạy qua một sợi Platin (Pt) rất mảnh, sợi Platin trở nên rất nóng và phát sáng. Tuy sợi Platin tạo ra ánh sáng khá yếu và cũng không sáng được lâu, nhưng thí nghiệm của Davy đã tạo tiền đề, là cảm hứng để nhiều nhà phát minh tiếp tục nghiên cứu và phát triển ý tưởng này như Thomas Edison hay Friedrich Just và Franjo Hanaman.
Edison đã khiến cả thế giới phải công nhận bóng đèn sợi đốt là 1 phát minh của ông bằng cách làm được cái điều mà hơn 20 nhà khoa học trước ông đã không làm được đó là tìm ra được thứ mà ngày nay chúng ta vẫn gọi là dây tóc bóng đèn: 1 sợi chỉ than.
Về sau này, sợi chỉ than huyện thoại được thay thế bằng dây tóc Tungsten (tức Volfam) – chất có điểm nóng chảy cao nhất trong các nguyên tố hóa học đã biết. Edison đã biết trước điều này, tuy nhiên công nghệ thời của ông vẫn còn quá lạc hậu.
10. Phát minh ra Điện báo
Điện báo (1809): Điện báo – Telegraph là hệ thống thông tin liên lạc bằng điện tín, đánh dấu sự phát triển đầu tiên của hệ thống truyền thông điện. Trên thực tế, ý tưởng về điện báo được khởi xướng đầu tiên bởi Samuel Soemmering vào năm 1809 nhưng phải đến năm 1837 thì Samuel Morse mới phát minh ra mã nhị phân Morse có chiều dài thay đổi bằng cách sử dụng chuỗi các dấu chấm (.) và dấu gạch (-) để biểu diễn cho các mẫu tự alphabet – được xem là cơ sở cho sự phát triển của hệ thống truyền thông số bằng điện – truyền thông số hiện đại lúc bấy giờ.
11. Phát minh ra Nam châm điện
Nam châm điện (1825): Nguồn gốc của nam châm điện được phát minh lần đầu tiên vào năm 1825 do nhà điện học William Sturgeon người Anh (1783-1850). Nam châm điện do Sturgeon phát minh là một lõi sắt non có dạng hình móng ngựa và có một số vòng dây điện cuốn xung quanh.
Nếu có dòng điện sinh ra bởi một pin nhỏ chạy qua đó thì sẽ làm cho lõi sắt bị từ hóa và cảm ứng từ sinh ra đủ mạnh có thể hút lên được một hộp sắt nặng khoảng 7 ounce. Nếu chúng ta ngắt dòng điện thì từ trường của lõi sẽ biến mất theo.
12. Phát minh ra Điện thoại
Điện thoại (1860): Ý tưởng về điện thoại đầu tiên được Johann Philipp Reis nghĩ ra vào năm 1860 có giới thiệu về một thiết bị điện từ có khả năng chuyển tiếp các âm thanh có thể hiểu được.
Vài năm sau đó, cuộc gọi đầu tiên được thực hiện giữa nhà phát minh Alexander Graham Bell và người trợ lí của ông ngồi cách đó 4,5 m vào ngày 10/3/1876 với mẩu hội thoại ngắn ngủi: “Watson, anh đến đây nhé, tôi có việc cần!” là sự kiện lịch sử đánh dấu chính thức sự ra đời của chiếc điện thoại liên lạc.
13.Chất bán dẫn (1896):
Vào năm 1896, chất bán dẫn đầu tiên đã được phát hiện và được Jagadish Chandra Bose sử dụng với mục đích thương mại. Đây là những chất có độ dẫn điện nằm giữa chất cách điện (điện môi) và chất dẫn điện.
14. Phát minh ra Radio – Đài
Radio (1897): Guglielmo Marconi, một nhà phát minh người Ý đã chứng minh tính khả thi của việc truyền thông tin vô tuyến trong không gian. Ông đã gửi và nhận thành công những tín hiệu radio đầu tiên vào năm 1895. Và vào những năm đầu thế kỷ 20, Marconi bắt đầu đầu tư vào một ý tưởng truyền tín hiệu vượt Đại Tây Dương nhằm cạnh tranh với loại hình truyền tín hiệu bằng dây cáp. Năm 1901, ông đã truyền đi tín hiệu không dây đầu tiên qua đại dương từ Poldhu, Cornwall – một hạt tại miền Tây Nam Vương quốc Anh đến đồi Signal Hill tại St John’s, Newfoundladn – giờ đây là một quần đảo thuộc sở hữu của Canada.
Khoảng cách giữa 2 điểm thu và nhận vào khoảng 3500 km. Tín hiệu phản hồi mà Marconi nhận được là 3 âm click – tương ứng với ký tự S theo mã Morse. Năm 1909, Marconi và Karl Fedinand Braun cùng nhận được giải Nobel vật lý về những “đóng góp đáng ghi nhận vào sự phát triển của công nghệ truyền tin không dây”.
15. Electron (1897):
J.J. Thompson chính là người đã phát hiện và chứng minh được sự tồn tại của electron mặc dù ông chưa thể nhìn thấy hay tách được chúng ra. Electron là hạt hạ nguyên tử đầu tiên được phát hiện và được xác nhận là loại hạt đầu tiên cấu tạo nên vật chất nhỏ hơn cả nguyên tử. Khám phá này đã cung cấp cho chúng ta bằng chứng về một đơn vị mang điện cơ bản và miêu tả về nó. Những thí nghiệm và phát hiện của J.J. Thompson đã mở ra một lĩnh vực khoa học mới – Vật lý hạt.
16. Vật lý lượng tử (1900):
Vật lý lượng tử ra đời vào năm 1900 khi các nhà khoa học xuất sắc nhất đang tập trung sự chú ý vào một “vấn đề nóng” trên nhiều phương diện, đó là việc giải thích sự phân bổ theo bước sóng của bức xạ được phát ra từ một vật nung nóng. Max Planck đề xuất giả thuyết về tính gián đoạn của bức xạ điện từ phát ra từ các vật – giả thuyết lượng tử – để giải thích những kết quả thực nghiệm về bức xạ của các vật đen. Sự xuất hiện của vật lý học lượng tử và thuyết tương đối là một cuộc cách mạng của vật lý học vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và là cơ sở khoa học của nhiều lĩnh vực công nghệ cao hiện nay như công nghệ điện tử, vi điện tử, công nghệ viễn thông, công nghệ quang tử, công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin…
17. Phát minh ra Máy bay (1903):
Chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới có thể thực hiện một chuyến bay thành công là phát minh của hai anh em Orville và Wilbur Wright. Trong chuyến bay đầu tiên vào ngày 17/12/1903, chiếc máy bay của anh em nhà Wright đã bay được 40 m trong 12 giây trên không trung và trở thành chiếc máy bay đầu tiên trong lịch sử cất cánh thành công, được đặt tên là Flyer I. Flyer có sải cánh dài khoảng 12m và nặng hơn 300kg, đây là một chiếc máy bay có hai tầng cánh và người điều khiển sẽ phải nằm trên tầng cánh dưới. Chiếc máy bay được trang bị động cơ xăng 12 mã lực.
18. Phát minh ra Tivi (1926):
John Logie Baird – nhà phát minh người Scotland được xem là người đặt một dấu mốc vô cùng quan trọng trong lịch sử phát triển của công nghệ truyền hình. Vào ngày 27/01/1926, chương trình truyền hình lần đầu tiên được phát sóng là một màn múa rối do chính Baird thực hiện với hai đầu quay rối bằng cao su, được quay lại trước một loạt các camera và sau đó, gửi hình ảnh đến một màn hình gần đó. Năm 1928, Baird lần đầu tiên cho phát sóng một chương trình vô tuyến ra nước ngoài, từ London tới New York. Đây được xem là chương trình phát sóng truyền hình màu đầu tiên trên thế giới.
19. Phát minh ra Transistor (1947):
Transistor là một loại linh kiện bán dẫn chủ động, thường được sử dụng như một phần tử khuyếch đại hoặc một khóa điện tử. Transistor xuất hiện khắp nơi trong đời sống hàng ngày, ẩn trong các thiết bị hiện đại, hành xử như tế bào não kiểm soát từ những hệ thống to lớn như điều khiển phi thuyền bay vào vũ trụ, xác định mục tiêu cho tên lửa quân sự đến những chiếc máy tính, điện thoại di động và lò vi ba trong nhà bếp. Vào ngày 16/12/1947 John Bardeen, William Bradford Shockley và Walter Houser Brattain đã sáng chế thành công mẫu Transistor đầu tiên tại Bell Labs và Sony là công ty đầu tiên ứng dụng sáng chế transistor này vào lĩnh vực thương mại.
20. Vi mạch
(Integrated Circuit, hay còn gọi là IC – 1959): Vi mạch là các mạch điện chứa các linh kiện bán dẫn và linh kiện điện tử thụ động (như điện trở) được kết nối với nhau, kích thước cỡ micromet (hoặc nhỏ hơn) được chế tạo bởi công nghệ silicon cho lĩnh vực điện tử học. Vào 12/09/1958, Jack Killby đã chế tạo thành công IC dao động với 5 linh kiện đơn giản trên một vật liệu giống nhau gọi là “chip”. Phát minh này không chỉ mang lại cho Killbly bằng sáng chế của Texas Instrucment mà còn mang lại cho ông giải thưởng Nobel vật lý năm 2000.
21. Phát minh ra Internet (1969):
Vào cuối những năm 60 Bộ Quốc Phòng Mỹ đã tài trợ cho một nhóm sinh viên từ nhiều trường Đại học và Viện nghiên cứu của Mỹ để tham gia chương trình nghiên cứu về một cách thức truyền thông mới. Kết quả nghiên cứu là sự ra đời của mạng ARPA (The Advanced Research Project Agency – tên của tổ chức tài trợ chi phí nghiên cứu cho chương trình này). Sau đó mạng này được các trường Đại học cùng nhau phát triển để trở thành một mạng chung cho các trường Đại học gọi là ARPAnet – “ông tổ” của Internet ngày nay.
Ban đầu mạng này được các trường Đại học sử dụng sau đó Quân đội cũng bắt đầu tận dụng và cuối cùng Chính phủ Mỹ quyết định mở rộng việc sử dụng mạng cho mục đích thương mại và cộng đồng. Mạng Internet ngày nay đã trở thành một mạng liên kết các mạng máy tính nội bộ và các máy tính cá nhân trên khắp toàn cầu. Cho đến nay, mọi người đều công nhận rằng Internet là một trong những phát minh vĩ đại nhất của nhân loại trong thế kỷ XX và có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế thế giới.
22. Bộ vi xử lý (1971):
Intel bắt đầu phát triển vi xử lý từ năm 1969 theo dự án của nhà sản xuất máy tính Nhật Busicom. Kế hoạch ban đầu của Busicom là xây dựng 12 chip có khả năng tùy biến. Nhưng kỹ sư Ted Hoff của Intel đã hình thành ý tưởng về một thiết bị logic đa mục đích hoạt động hiệu quả hơn. Ban đầu, Busicom nắm giữ các quyền liên quan tới bộ vi xử lý đó và trả cho Intel 60.000 USD. Nhận thấy tiềm năng của “bộ não” này, Intel quyết định trả lại số tiền trên để đổi lấy quyền thiết kế chip. Ngày 15/11/71, họ giới thiệu 4004 ra thị trường thế giới với giá 200 USD. 4004 có tốc độ 108 KHz với 2.300 bóng bán dẫn.
23. Phát minh ra Điện thoại di động (1973):
Mgày 3/4/1973, Tiến sĩ Martin Cooper của Motorola thực hiện cuộc gọi đầu tiên từ chiếc di động của mình. Tại thời điểm đó, ông đã đi dạo trên đại lộ New York City’s Sixth Avenue và mang theo một thiết bị có trọng lượng gần 1 kg và không ai trong số những người đi đường nhận ra đó là một chiếc điện thoại di động. Sau này, thiết bị đó được công nhận là chiếc điện thoại di động đầu tiên trên thế giới, người ta gọi nó là Motorola DynaTAC.
23. Điện thoại thông minh – Smartphone (2007):
Năm 2007, Apple bắt đầu ra mắt chiếc điện thoại có màn hình cảm ứng đầu tiên và đây cũng được xem là công ty tiên phong sản xuất thiết bị di động có màn hình cảm ứng. Những thiết bị này được tích hợp GPS, la bàn, ghi âm giọng nói, camera, bản đồ và trình duyệt web có đi kèm cửa hàng ứng dụng, cho phép người dùng tải xuống các app yêu thích và dùng ngay trên máy. Hiện nay, smartphone đã trở thành phương tiện liên lạc được sử dụng rộng rãi với rất nhiều cải tiến hiện đại cả về kiểu dáng, tính năng và nhiều thứ khác.